Chuyển đến nội dung chính

Nhà lãnh đạo Đỗ Mười và vấn đề bảo vệ biển đảo nước ta

Thanh Niên giới thiệu bài viết của nguyên Phó trưởng ban Ban Biên giới Chính phủ Hoàng Trọng Lập nhân 49 ngày nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười từ trần về những dấu ấn của nguyên Tổng bí thư trong nhân viên an ninh chủ quyền biển đảo.

   

  Lễ ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc bộ ngày 25.12.2000 TL

 
Ngày 6.10.2018 đã diễn ra Quốc tang nguyên Tổng bí thư, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười. Cũng ngày này, 43 năm về trước là ngày Thành lập và hoạt động Ban Biên giới của Hội đồng Chính phủ, tiền thân của Ban Biên giới Chính phủ và Ủy ban Biên giới quốc gia sau này. Đây chỉ là sự tình cờ nhưng khiến tôi nhớ lại sự quan tâm và những ý kiến chỉ đạo của đồng chí Đỗ Mười trong công cuộc bảo vệ lãnh thổ biển đảo Tổ quốc.

Khi Ban Biên giới Chính phủ được Ra đời, trụ sở làm việc đặt tại tầng 3 tòa nhà Văn phòng Chính phủ và chúng tôi đôi khi được gặp đồng chí Đỗ Mười khi ông là Phó chủ tịch rồi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Những ra quyết định chiến lược

Tôi nhớ lần đầu tiên tham dự cuộc họp với đồng chí Đỗ Mười vào thời điểm năm 1985 về việc tổ hợp công ty 7 nước dự định đặt 550 hải lý đường dây cáp quang ngầm Sin-Hon-Tai qua vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Theo Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS), các quốc gia được quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm trong các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia khác.

Chính vì vậy, 1 số ít nước tham gia dự án đặt cáp không muốn thông báo cho phía VN. Trong bối cảnh UNCLOS mới được ký kết, chưa có hiệu lực vì chưa đủ 60 quốc gia phê chuẩn, chúng tôi phải nghiên cứu và điều tra thận trọng và báo cáo đầy đủ với đồng chí Đỗ Mười, khi đó là Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Tuy các quốc gia được quyền tự do lắp đặt cáp ngầm nhưng đặt cáp là liên quan đến nghiên cứu và điều tra khoa học biển và đào đặt các trạm tiếp sóng là những công việc mà UNCLOS cho phép các quốc gia ven biển có quyền tài phán.

Dự án đặt cáp là hoàn toàn mới đối với Nước Nhà nhưng Đồng chí Đỗ Mười đã nắm được ngay các lý lẽ và gật đầu buộc Tổ hợp các công ty nước ngoài xin phép, nộp lệ phí xin giấy phép và dịch vụ nghiên cứu khoa học biển. Họ cũng phải mời cán bộ ta lên tàu đo lường và thống kê khi đặt cáp.

Đây chính là một chiến thắng mở ra tiền lệ để chúng ta bảo vệ các vùng biển thuộc quyền tài phán của mình.

Trong giai đoạn đồng chí Đỗ Mười làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1988-1991) và Tổng bí thư (1991-1997), đất nước ta có khá nhiều sự kiện về biên giới lãnh thổ, biển đảo. Trên cương vị của mình, đồng chí Đỗ Mười đã có không ít việc làm, đưa ra quyết định có chân thành và ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ, gìn giữ lãnh thổ biển đảo của Tố quốc.

Năm 1988, Trung Quốc xâm chiếm một số đảo chìm ở quần đảo Trường Sa và các chiến sĩ của chúng ta đang nắm giữ Gạc Ma đã anh dũng hy sinh. Chúng ta đã đấu tranh quyết liệt với hành động trắng trợn của Trung Quốc, từng bước một tăng tốc sự có mặt để bảo vệ các đảo ở Trường Sa và thềm lục địa phía nam.

Đồng chí Đỗ Mười đã tích cực ủng hộ xây dựng các nhà dàn DK trên thềm lục địa khu vực Tư Chính, bác bỏ những ý kiến còn băn khoăn. Ngày 5.7.1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười ban hành Chỉ thị số 180 UT về xây dựng cụm dịch vụ kinh tế-khoa học kỹ thuật thuộc Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo che phủ lên các bãi đá ngầm trên thềm lục địa khoanh vùng Tư Chính.

Đây là việc làm có ý nghĩa chiến lược, nhằm có mặt một cách thật sự nhân viên bảo vệ thềm lục địa quan trọng của Viêt Nam. Việc này càng có giá trị khi China ngày 8.5.1992 ngang ngược kí với công ty Crestone (Mỹ) thăm dò khai thác một lô rộng 25.255 km2 ở khu vực thềm lục địa Tư Chính của Việt Nam.

Một nhà giàn ở vùng Tư Chính KIÊN TRUNG

 Cam kết chủ quyền đối với Hoàng Sa-Trường Sa

Giữa nước ta và Trung Quốc tồn tại 3 vấn đề lớn về biên giới lãnh thổ là biên giới đất liền, phân định vịnh Bắc Bộ và vấn đề Biển Đông. đó là những vấn đề rất phức tạp và hệ trọng, gây ra nguy cơ mất ổn định ảnh hưởng tới hòa bình, cách tân và phát triển của đất nước.

Chính vì vậy, ngay sau khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, trong những ưu tiên của đất nước ta là giải quyết những trở ngại đó. Ngày 7.11.1991, trong chuyến thăm chính thức Trung Hoa của Tổng bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã đặt vụ việc và thỏa thuận với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân: “phía 2 bên chấp nhận thông qua thương lượng giải quyết hòa bình vấn đề biên giới lãnh thổ tồn tại giữa hai nước”, theo sách Biên giới trên đất liền nước ta-China (NXB Công an Nhân dân).

Sau khi phía hai bên ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết những vấn biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc tháng 10.1993, các diễn đàn đàm phán về 3 vấn đề nói trên được mở ra.

Dù tính cách khác nhau, nhưng cụ Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt rất hợp nhau
Mặt khác, trước nhu cầu nhân viên an ninh biển đảo của Tổ quốc và phối hợp các bộ ngành, địa phương trở nên tân tiến kinh tế biển, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đưa ra quyết định thành lập và hoạt động Ban chỉ đạo Biển Đông-Trường Sa (năm 1992) do Phó thủ tướng Trần Đức Lương làm Trưởng Ban.

Thành viên Ban chỉ đạo gồm có lãnh đạo các bộ ngành quốc phòng, ngoại giao, công an, dầu khí, một số ban của Đảng được mời tham gia khi có liên quan...Ban Biên giới Chính phủ làm sở tại Ban chỉ đạo và tôi được giao nhiệm vụ Phụ trách văn phòng Ban chỉ đạo.

Ngày 6.5.1993, Bộ Chính trị do đồng chí Đỗ Mười đứng đầu ban hành Nghị quyết số 03 NQ/TW về 1 số nhiệm vụ phát triển kinh tế trong những năm trước mắt. Theo tinh thần của Nghị quyết, Thủ tướng Chính phủ ra ra quyết định số 398 ngày 5.8.1993 thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và các hải đảo, trên cơ sở Ban chỉ đạo Biển Đông -Trường Sa được mở rộng và trao thêm nhiệm vụ chỉ đạo điều hành cải cách và phát triển kinh tế biển.

Ban chỉ đạo Nhà nước có thêm thành viên là lãnh đạo Bộ Thủy sản, Kế hoạch, Tài chính, Giao thông Vận tải... Ban chỉ đạo trong những năm đó thực sự hoạt động có hiệu quả trong việc phối kết hợp các bộ ngành, địa phương phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế biển đảo, tăng cường bảo vệ chủ quyền và nghĩa vụ và quyền lợi quốc gia.

Có thể nói các đảo, đá trong quần đảo Trường Sa và hệ thống các đảo ven bờ như Vân Đồn, Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Cồn Cỏ, Phú Quí, Phú Quốc, Thổ Chu... phát triển được như ngày nay có một trong những phần đóng góp không nhỏ của Ban chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và các hải đảo.
 

Lá cờ đỏ sao vàng luôn tung bay trên nóc nhà giàn KIÊN TRUNG

 Một sự kiện có chân thành và ý nghĩa đối với biển đảo Việt Nam là ngày 23.6.1994, Quốc hội phê chuẩn UNCLOS. Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Quốc hội hàm chứa cơ chế về biển và giải quyết vụ việc 2 quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa. Tôi còn nhớ các vị lãnh đạo, trong các số ấy có đồng chí Đỗ Mười đã chỉnh sửa văn bản Nghị quyết không dưới 30 lần.

Trong Nghị quyết có nhấn lại quan điếm của Tổng bí thư Đỗ Mười đã nêu ra với các nước là “Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết về chủ quyền cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng chủ quyền trên niềm tin bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng lao lý quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982, tôn trọng quyền chủ quyền ,quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa .

Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản dài lâu các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm tinh vi thêm tình hình,không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”.

Biên giới lãnh thổ là việc hệ trọng của quốc gia nên thường các vấn đề được báo cáo lên lãnh đạo cấp cao và cán bộ về biên giới hay được triệu tập khi cần. Chiều 19.10.1994, tôi có mặt trong phiên họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về buổi giao lưu của nước ngoài trên Biển Đông và đối sách của ta .

Tôi ấn tượng về cách điều hành cuộc họp của Tổng bí thư Đỗ Mười khi không khí thường là sôi nổi tích cực. Đồng chí nêu những vấn đề cần bàn để các thành viên có thể bày tỏ ý kiến và chốt lại những điểm quan trọng để triển khai.

Vụ việc vịnh Bắc bộ

Tổng bí thư Đỗ Mười luôn quan tâm thúc đẩy giải quyết vụ việc biên giới lãnh thổ với China và đã thỏa thuận với Tổng bí thư  Giang Trạch Dân về “tiến tới ký Hiệp định về biên giới trên bộ trước năm 2000...; thực hiện phân định vịnh Bắc Bộ một cách công bằng hợp lí, chậm lắm là năm 2000”.

Trong phiên họp của Bộ Chính trị ngày 6.8.1998 về chủ trương cơ bản trên Biển Đông và biên giới trên bộ với China, đồng chí Đỗ Mười, lúc đó là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, đã Khẳng định lại: “Tôi đã thỏa thuận với Tổng bí thư Giang Trạch Dân: làm sao giải quyết phân định vịnh Bắc bộ những năm 2000”. Phiên họp đó tôi được tham dự và các đồng chí Văn phòng Trung ương Đảng đề nghị tôi làm bản ghi chép để lưu trữ vì bàn đến vụ việc chuyên môn biên giới lãnh thổ.

Để thực hiện quyết tâm của lãnh đạo cấp cao, từ năm 1992-2000, riêng về phân định vịnh Bắc bộ, Việt Nam và China đã tiến hành 7 vòng đàm phán cấp Chính phủ, 3 cuộc gặp Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ, 18 vòng đàm phán cấp chuyên viên và tương đối nhiều vòng họp của Tổ chuyên viên liên hợp, Tổ chuyên gia đo vẽ và xây dựng Tổng đồ vịnh Bắc bộ.

Ngày 25.12.2000 tại Bắc Kinh, 2 nước đã ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc bộ giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa. Sự thành lập của hiệp định có chân thành và ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo môi trường chủ quyền ổn định để trở nên tân tiến đất nước.

Hiệp định là cơ sở pháp lý thế giới để chúng ta nhân viên an ninh, quản lý khai thác tài nguyên vịnh Bắc bộ phục vụ sự đi lên kinh tế đất nước.

Trong thế kỉ 21 này, nhân loại đang hướng ra biển để sinh tồn và cách tân và phát triển. VN cũng đã có Chiến lược Biển của mình. Đất nước đạt được thành tựu về biển đảo như hiện nay, một trong những phần nhờ sự quan tâm và những quyết sách của đồng chí Đỗ Mười - nhà lãnh đạo có tấm lòng đối với biển đảo thân yêu của Tổ quốc.

(Sưu tầm)

>>> Nguồn: Nhà lãnh đạo Đỗ Mười và sự việc nhân viên bảo vệ biển đảo Việt Nam

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đến Pháp - Khám phá những con đường thơ mộng tại Paris

Du lịch Pháp  đến với Paris khách du lịch sẽ mê mẩn những con phố với kiến trúc cổ kính mang đậm hơi thở của thời gian, yên bình và cực kì thơ mộng. Dưới đây là những con phố đẹp nhất ở Paris mà bạn không nên bỏ lỡ trong chuyến đi du lịch châu Âu sắp tới của mình. PHỐ MOUFFETARD Phố Mouffetard là một trong những khu phố sầm uất, quy tụ những hàng cà phê, cửa tiệm và khu chợ náo nhiệt đậm chất Paris. Nếu có dịp ghé thăm con đường này, vào những buổi chiều du khách hãy lựa chọn một quán có view đẹp vừa thưởng thức ly café phong cách Pháp vừa ngắm nhìn dòng người qua lại để cảm nhận một Paris thân thuộc và thơ mộng đến lạ kỳ. PHỐ L’ABREUVOIR Phố L’abreuvoir đẹp đến nao lòng trong suốt bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Trái với sự sôi động của các con phố xung quanh đó phố L’abreuvoir khá trầm lắng nhưng chính điều này đã tạo ra nét cuốn hút không thể chối từ. Tại phố L’abreuvoir du khách đừng bỏ qua cơ hội check in cùng ngọn đồi Tình Yêu Montmatre. Ngoài ra, bạn có thể dễ dàng bắt

Du ngoạn nước Italia đừng quên tìm hiểu thành phố Venice xinh đẹp

Ý là quốc gia được tạo hóa ưu ái với thời tiết lý tưởng, cảnh đẹp tự nhiên làm hút hồn biết bao du khách, kiến trúc cổ xưa cùng nhiều di sản văn hóa ấn tượng được UNESCO công nhận. Vậy nên, nếu đã đi du lịch châu Âu thì bạn đừng nên bỏ qua những điểm đến lý tưởng tại thành phố tình yêu Venice trong  tour du lịch Ý  nhé! Thành phố Venice  nằm ở phía Đông Bắc của Italia, Venice giống như một mạng nhện khổng lồ được tạo thành bởi 118 đảo và 175 kênh đào, các đảo nối với nhau bởi 444 cây cầu. Thành phố Venice  trở thành điểm đến  du lịch Ý  nổi tiếng bậc nhất với vẻ đẹp cổ kính xa xăm được chấm phá bởi các dãy phố cổ ngoằn nghèo, kiểu nhà ống nhiều cửa sổ, lối kiến trúc độc đáo kết hợp với những câu chuyện tình lãng mạn của các cặp tình nhân. Mỗi khung cảnh thành phố đều mang 1 vẻ lãng mạn, thơ mộng và huyền bí. Venice hiện là trung tâm thời trang và mua sắm lớn nhất Italia Venice (hay Venezia theo tiếng địa phương) bắt nguồn từ người Veneti cổ sống vào khoảng thế kỷ 10 TCN. Theo

Du lịch xứ sở kim chi chiêm ngưỡng lá phong, thong thả trượt tuyết ngay giữ trời thu

Mùa thu Hàn Quốc  không chỉ được nhuộm sắc rực rỡ bởi những tán lá phong mà tại đây bạn còn được tận hưởng cảm giác mát lạnh tê tái của mùa đông với những trò chơi cùng tuyết và băng. Có phải tạo hóa đã quá ưu ái cho thiên nhiên và con người nơi đây có được hai mùa trong năm? Chắc hẳn là không bởi mùa thu xứ Hàn quá đỗi thơ mộng lãng mạn, nên thơ níu lòng biết bao du khách như vậy mà có mùa đông góp mặt nữa thì chắc chắn tạo hóa đã không công bằng với thiên nhiên và con người của mỗi đất nước rồi. Vậy vì sao khi  du lịch Hàn Quốc  bạn không chỉ được tận hưởng bức tranh thu dịu dàng, quyến rũ mà còn được gặp ông già tuyết với cái lạnh co ro, tê tái. Đó chính là tạo đây có một công viên rất đặc biệt. CÔNG VIÊN TUYẾT ONE MOUNT Công viên tuyết One Mount  nằm ở thành phố Goyang, tỉnh Gyeongi, Hàn Quốc. Với diện tích hơn 161.000 m2, One Mount là công viên giải trí đầu tiên trên thế giới được bao phủ bởi nước (khu Water Park) và băng (khu Snow Park). Tổ hợp giải trí được cấu thành b